Toàn cảnh phiên tòa.
Trên cơ sở lời khai của các bên đương sự, tài liệu có trong hồ sơ vụ án xác định nội dung vụ án như sau: Chị Nguyễn Thị L và anh Vũ Trọng T tự nguyện đăng ký kết hôn năm 2009 tại Ủy ban nhân dân xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Vợ chồng chung sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn về cách sống, anh T thường xuyên đánh chửi chị. Năm 2012 chị đã làm đơn ly hôn nhưng do anh T hứa sửa chữa nên chị rút đơn về. Sau đó vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn thì anh T lại như cũ. Mâu thuẫn vợ chồng căng thẳng nhất vào tháng 10/2016, chị không chịu nổi sự đánh chửi của anh T nên đã phải bỏ về nhà bố mẹ đẻ ở, vợ chồng ly thân từ đó. Nay chị L xác định tình cảm vợ chồng không còn, xin được ly hôn anh T để ổn định cuộc sống.
Về con chung: Vợ chồng có hai con chung là cháu Vũ Thị Phương V (sinh ngày 19/6/2010) và cháu Vũ Trọng Q (sinh ngày 12/4/2013), hiện hai cháu đang do anh T nuôi dưỡng. Ly hôn, chị L đề nghị được quyền nuôi cả hai cháu và không yêu cầu anh T góp tiền cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản chung: Vợ chồng có 01 nhà mái bằng tổng diện tích khoảng 150m2 tại thôn Vị Hạ trị giá khoảng 300 triệu đồng, xây trên đất của bố mẹ chồng là ông Vũ Trọng K và bà Lê Thị L, hiện anh T và các con đang ở. Nguồn tiền xây nhà là của vợ chồng có trong quá trình kinh doanh vật liệu xây dựng và vay mượn. Khi ly hôn chị đề nghị giao nhà cho anh T sở hữu và chịu trách nhiệm trả nợ chung của vợ chồng, còn lại bao nhiêu thì anh T phải trả chênh lệch tài sản cho chị một nửa bằng tiền. Đối với đất chị không đề nghị giải quyết.
Về công nợ chung: Vợ chồng còn nợ tiền vay 2 Ngân hàng, 4 cá nhân tổng là 277.173.000 đồng và 03 chỉ vàng 9999. Ly hôn, chị L đề nghị giao cho anh T có trách nhiệm trả toàn bộ số nợ này.
Anh T có quan điểm nhất trí ly hôn và xin được nuôi 2 con chung. Về tài sản chung anh T xác định căn nhà chị L yêu cầu giải quyết không phải tài sản chung của vợ chồng mà là của bố mẹ anh; về khoản nợ chung chị L khai là đúng. Ngoài ra anh T còn đưa ra một số khoản nợ khác vợ chồng phải trả đề nghị Tòa án giải quyết.
Nhận thấy vụ án nêu trên có quan hệ tranh chấp phổ biến ở địa phương, đa dạng người tham gia tố tụng nên VKSND huyện Bình Lục đã phối hợp với Tòa án tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm có sự tham dự của Lãnh đạo, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, chuyên viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục. Trên cơ sở kết quả tranh tụng và ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, HĐXX đã tuyên bản án, phù hợp với quan điểm đường lối giải quyết vụ án của VKS.
Sau phiên tòa, VKSND huyện Bình Lục đã tổ chức họp rút kinh nghiệm. Các ý kiến phát biểu đều có chung nhận xét, đánh giá phiên tòa đáp ứng mục đích, yêu cầu cải cách tư pháp. Kiểm sát viên đã phát huy tốt vai trò, trách nhiệm trong quá trình kiểm sát việc giải quyết vụ án của Tòa án, đề xuất đường lối giải quyết vụ án đảm bảo có căn cứ. Thông qua phiên tòa giúp cho cán bộ, chuyên viên, Kiểm tra viên, Kiểm sát viên trong đơn vị học tập kinh nghiệm, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, hôn nhân và gia đình trong thời gian tới./.