Ngày 24/7/2019, Viện KSND huyện Bình Lục phối hợp với Tòa án nhân dân cùng cấp tổ chức phiên tòa dân sự rút kinh nghiệm đối với vụ án “Tranh chấp về ly hôn, nuôi con, chia tài sản chung”. Xác định vụ án thuộc loại quan hệ tranh chấp xảy ra phổ biến ở địa phương và có tính chất phức tạp trong việc phân chia tài sản chung của vợ chồng, quá trình Tòa án thu thập chứng cứ bị đơn có hành vi chống đối, không hợp tác, do đó Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục đã chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức phiên tòa rút kinh nghiệm trong cụm theo chỉ đạo của lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tỉnh tại Văn bản số 920/CV-VKS-P9 ngày 15/5/2019 về việc tổ chức phiên tòa dân sự, hành chính rút kinh nghiệm theo cụm.
Tham dự phiên tòa có Lãnh đạo, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp Phòng 9; đại diện Lãnh đạo, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, Chuyên viên làm công tác kiểm sát việc giải quyết án dân sự, hành chính của hai đơn vị Viện kiểm sát huyện trong cụm (Duy Tiên, Lý Nhân) và tập thể Lãnh đạo, Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, chuyên viên Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục.
Toàn cảnh phiên tòa.
Nội dung vụ án: Theo đơn khởi kiện, ý kiến trình bày của các bên đương sự và tài liệu thu thập được xác định nội dung vụ án như sau:
Chị Nguyễn Thị N và anh Ngô Quốc H được hai bên gia đình tổ cưới theo phong tục địa phương ngày 10/12/2000 (âm lịch). Do khi cưới chị N chưa đủ tuổi đăng ký kết hôn nên ngày 03/7/2002 anh H và chị N mới đăng ký kết hôn tại UBND xã Tràng An, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Vợ chồng chung sống hòa thuận đến đầu năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do anh H có tính ghen tuông, nghe người ngoài dèm pha cho rằng chị N ngoại tình nên đã nhiều lần đánh chửi chị, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng căng thẳng. Khoảng tháng 6/2018, do bị anh H đánh nên chị N đã bỏ nhà đi, không chung sống cùng anh H nữa, từ đó đến nay vợ chồng sống ly thân không còn quan tâm đến nhau. Nay chị N xác định tình cảm vợ chồng không còn, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H. Quan điểm của anh H về việc kết hôn và nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng như chị N trình bày, anh xác định tình cảm với chị N vẫn còn nên không nhất trí ly hôn.
Về con chung: Anh chị xác định có 2 con chung là cháu Ngô Quốc Ph (sinh năm 2002) và cháu Ngô Quốc Ng (sinh năm 2009); hiện hai cháu đang do anh H nuôi dưỡng. Do cháu Ph và cháu Ng đều có nguyện vọng ở với anh H nên ly hôn chị đồng ý để 2 cháu tiếp tục ở cùng anh H, chị không góp tiền cấp dưỡng nuôi con cùng anh H, nếu sau này các cháu có nguyện vọng ở với chị thì chị sẽ nuôi và cũng không yêu cầu anh H phải góp tiền cấp dưỡng nuôi con cùng chị. Tại phiên tòa chị N thay đổi quan điểm đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được nuôi dưỡng cháu Ng. Anh H đề nghị được nuôi dưỡng 2 cháu, không yêu cầu chị N cấp dưỡng nuôi con.
Về tài sản: Chị N yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung của vợ chồng gồm: 80 triệu tiền gửi Ngân hàng Nông nghiệp huyện Bình Lục; 01 chiếc xe môtô Honda Wave BKS 90B2 - 613.12 (mua năm 2017); 7,5 chỉ vàng 9999; 01 xe môtô Honda Dream BKS 90H9 - 8220 (mua năm 2012); 01 tivi Sony (mua năm 2016 với giá 15,5 triệu đồng); 01 máy giặt Elextronic mua năm 2017 với giá 10 triệu đồng; 01 bộ bàn ghế gỗ hương mua năm 2016 với giá 43 triệu đồng; 01 thửa đất số 310(1) tờ bản đồ 25 xã Tràng An, diện tích 120m2 tại Xóm 2, xã Tràng An và 01 ngôi nhà hai tầng diện tích khoảng 140m2 xây trên thửa đất 310(1). Theo chị N khai các tài sản chung của vợ chồng nêu trên có tổng trị giá là 1.285.300.000 đồng. Đồng thời chị N yêu cầu Tòa án giải quyết diện tích đất nông nghiệp của vợ chồng gồm: 464m2 ruộng lúa (thửa số 704, tờ bản đồ 9 năm 2016) tại xứ đồng Gió và 152m2 ruộng mạ (thửa 405, tờ bản đồ 9 năm 2016) tại xứ đồng Cửa thờ, tổng 616m2.
Về công nợ: Chị N xác định vợ chồng không nợ ai, không ai nợ vợ chồng. Anh H xác định vợ chồng nợ 117 triệu đồng, nhưng không xuất trình được chứng cứ chứng minh.
Do anh H không nhất trí ly hôn nên có hành vi chống đối không hợp tác với Tòa án trong việc thẩm định, định giá và hòa giải; anh H xác định vợ chồng chỉ có một số tài sản chung, còn một số tài sản là của riêng anh như: thửa đất diện tích 120m2 là của ông Ngô Văn Ngh (bố đẻ anh H) cho riêng anh, xe máy Wave BKS 90B2 - 613.12. Áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 17 Thông tư liên tịch số 02/2014/TTLT - TANDTC - VKSNDTC - BTP - BTC ngày 28/3/2014 của Toà án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Tài chính, Tòa án đã căn cứ vào giá tài sản nguyên đơn đưa ra để giải quyết.
Kiểm sát viên phát biểu tại phiên tòa.
Trên cơ sở kết quả tranh tụng, nghe Kiểm sát viên phát biểu ý kiến, Hội đồng xét xử đã tuyên xử ly hôn giữa chị N và anh H. Giao cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Ngô Quốc Ph (sinh năm 2002) và cháu Ngô Quốc Ng (sinh năm 2009), chị N không phải cấp dưỡng nuôi con chung. Xác định tài sản chung của vợ chồng có tổng trị giá 1.197.500.000đồng, anh H có công sức nhiều hơn trong việc tạo lập khối tài sản chung của vợ chồng nên được hưởng 55% giá trị, chị N được hưởng 45% giá trị, giao anh H được quản lý, sử dụng toàn bộ tài sản chung của vợ chồng và có trách nhiệm trả tiền chênh lệch tài sản cho chị N là 538.875.000đ. Về đất nông nghiệp chị N, anh H được quyền quản lý, sử dụng ½ diện tích (mỗi người 308m2). Phán quyết của HĐXX phù hợp với quan điểm của VKS.
Đ/c Nguyễn Anh Bình – Viện trưởng VKS huyện Bình Lục chủ trì phiên họp rút kinh nghiệm
Kết thúc phiên toà, đồng chí Nguyễn Anh Bình - Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục đã chủ trì phiên họp rút kinh nghiệm. Các thành viên tham dự phiên tòa đều có chung nhận xét, đánh giá lãnh đạo đơn vị Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Lục và Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa đã lựa chọn vụ án và phối hợp tốt với Tòa án cùng cấp tổ chức thành công phiên tòa rút kinh nghiệm, đảm bảo các tiêu chí, mục đích, yêu cầu của một phiên tòa rút kinh nghiệm, qua đó giúp cho các cán bộ trẻ, Kiểm sát viên Viện kiểm sát các huyện trong cụm tham dự phiên tòa học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, nâng cao về kỹ năng, trình độ nghiệp vụ trong công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự, HNGĐ./.