Trong năm 2020, Lãnh đạo Tòa án nhân dân hai cấp trong tỉnh đã tập trung chỉ đạo Thẩm phán, thư ký tổ chức thực hiện tốt công tác thụ lý, giải quyết các vụ, việc; đã phối hợp chặt chẽ, thường xuyên với các cơ quan hữu quan, trong đó có Viện kiểm sát nhân dân để giải quyết và nâng cao chất lượng xét xử các loại án, thực hiện các thủ tục tố tụng theo quy định, nhất là nguyên tắc tranh tụng khi xét xử, tạo điều kiện thuận lợi cho đương sự, tổ chức, công dân thực hiện quyền và nghĩa vụ khi tham gia tố tụng. Về cơ bản các bản án, quyết định của Tòa án bảo đảm có căn cứ, đúng pháp luật, bảo vệ được lợi ích của Nhà nước, quyền lợi hợp pháp của tổ chức, cá nhân, bảo đảm pháp chế XHCN, góp phần giữ vững trật tự an toàn xã hội, tạo môi trường ổn định cho sự phát triển kinh tế của địa phương. Tuy nhiên Toà án nhân dân hai cấp vẫn còn để xảy ra một số vi phạm, thiếu sót như sau:
1. Trong công tác thụ lý, giải quyết các vụ, việc dân sự.
1.1.Vi phạm thời hạn gửi quyết định, bản án cho Viện kiểm sát:
Ngày 06/7/2020, TAND tỉnh ban hành Bản án dân sự sơ thẩm số 12/2020/DS-ST giải quyết vụ án“tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy quyết định thu hồi đất” giữa nguyên đơn ông Bùi Văn Thọ và bị đơn ông Phan Văn Thu cùng 15 bị đơn khác. Ngày 20/7/2020, Tòa án mới gửi bản án nêu trên cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh chậm 03 ngày, vi phạm thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 269 BLTTDS.
Khoản 2 Điều 269 BLTTDS quy định:“Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày tuyên án, Tòa án phải giao hoặc gửi bản án cho các đương sự, cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện và Viện kiểm sát cùng cấp”.
Ngày 21/02/2020, TAND tỉnh ban hành Bản án dân sự phúc thẩm số 03/2020/DS-PT giải quyết vụ án “tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tài sản gắn liền với đất” giữa nguyên đơn cụ Lại Văn Huệ, Hoàng Thị Kiếm và bị đơn bà Dương Thị Hồng. Ngày 18/03/2020, Tòa án mới gửi bản án nêu trên cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh chậm 10 ngày, vi phạm quy định tại khoản 1 Điều 315 BLTTDS.
Khoản 1 Điều 315 BLTTDS quy định: “Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày ra bản án, quyết định phúc thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm phải gửi bản án, quyết định phúc thẩm cho Tòa án đã xét xử sơ thẩm, Viện kiểm sát cùng cấp,….”.
Ngày 16/12/2019, TAND tỉnh ban hành Quyết định số 10/2019/QĐST-HNGĐ giải quyết việc yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn giữa ông Nguyễn Quốc Thuần và bà Đỗ Thị Dương (đang làm việc tại Ba Lan). Ngày 25/12/2019, Tòa án mới gửi quyết định nêu trên cho Viện kiểm sát nhân dân tỉnh chậm 02 ngày, vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 370 BLTTDS.
Khoản 2 Điều 370 BLTTDS quy định: “2. Quyết định giải quyết việc dân sự phải được gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp, ….trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định…”.
1.2.Vi phạm trình tự, thủ tục mở lại phiên tòa quy định tại khoản 2 Điều 259 BLDS 2015:
Ngày 12/3/2019, TAND thành phố Phủ Lý thụ lý vụ án dân sự “Tranh chấp quyền sử dụng đất” giữa nguyên đơn bà Lại Thị Vây (SN 1967) với bị đơn ông Trần Văn Liệu (SN 1960), bà Nguyễn Thị Nguyệt (SN 1962), cùng địa chỉ thôn Lương Tràng, xã Liêm Tiết, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Ngày 11/7/2019, TAND thành phố Phủ Lý ban hành Quyết định số 13/2019/QĐXXST-DS đưa vụ án ra xét xử vào 7h30 phút ngày 05/8/2019. Phiên tòa ngày 05/8/2019, Hội đồng xét xử đã ra Quyết định số 04/2019/QĐST-TCDS tạm ngừng phiên tòa để thu thập bổ sung tài liệu chứng cứ và ấn định thời gian mở lại phiên tòa vào 7h30 phút ngày 04/9/2019.
Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa nhưng chưa thu thập được tài liệu chứng cứ bổ sung nên ngày 04/9/2019 HĐXX đã ra Quyết định số 04/2019/QĐST-TCDS tạm đình chỉ giải quyết vụ án. Ngày 11/5/2020, TAND thành phố Phủ Lý ra Quyết định số 02/2020/QĐST-TCDS tiếp tục giải quyết vụ án.
Đến ngày 21/8/2010, HĐXX ra Thông báo số 10/2020/TB-TA V/v mở lại phiên tòa vào 7h30 phút ngày 18/9/2020 và ngày 24/8/2020 thực hiện chuyển hồ sơ vụ án cho VKSND cùng cấp nghiên cứu như ở giai đoạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm.
Việc thực hiện thủ tục tố tụng của Thẩm phán từ sau khi có Quyết định tiếp tục giải quyết vụ án số 02/2020/QĐST-TCDS ngày 11/5/2020 như nêu trên là không đúng trình tự tố tụng quy định tại khoản 2 Điều 259 BLTTDS 2015.
Khoản 2 Điều 259 Bộ luật TTDS quy định: “…Thời hạn tạm ngừng phiên tòa là không quá 01 tháng, kể từ ngày Hội đồng xét xử quyết định tạm ngừng phiên tòa. Hết thời hạn này, nếu lý do để ngừng phiên tòa không còn thì Hội đồng xét xử tiếp tục tiến hành phiên tòa; nếu lý do để ngừng phiên tòa chưa được khắc phục thì Hội đồng xét xử ra quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án dân sự. Hội đồng xét xử phải thông báo bằng văn bản cho những người tham gia tố tụng và Viện kiểm sát cùng cấp về thời gian tiếp tục phiên tòa”.
Trong trường hợp này, do vụ án đã được đưa ra xét xử sau đó mới tạm đình chỉ giải quyết vụ án thì khi ra quyết định tiếp tục giải quyết vụ án Thẩm phán phải thông báo thời gian tiếp tục phiên tòa và chuyển các tài liệu thu thập bổ sung cho VKS cùng cấp để nghiên cứu. Việc Thẩm phán kéo dài thời hạn mở lại phiên tòa (sau 4 tháng kể từ ngày có quyết định tiếp tục giải quyết vụ án) và chuyển hồ sơ vụ án cho VKS cùng cấp để nghiên cứu trong thời hạn 15 ngày như trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là không có căn cứ, làm cho thời gian giải quyết vụ án bị kéo dài.
1.3. Vi phạm thời hạn mở phiên họp giải quyết yêu cầu tuyên bố một người một tích.
Ngày 19/9/2019, Tòa án nhân dân huyện Kim Bảng thụ lý việc dân sự số 02/2019 (người yêu cầu anh Nguyễn Văn Tiền), số 03/2019 (người yêu cầu chị Trần Thị Ánh) giải quyết “Yêu cầu tuyên bố một người mất tích”. Ngày 04/10/2019, Tòa án huyện Kim Bảng đã ra Quyết định số 02/2019, số 03/2019 thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích, thông báo đã được phát sóng trên Đài tiếng nói Việt Nam 03 lần trong ba ngày liên tiếp 09,10,11/10/2019 và đăng trên Báo Công lý trong 03 số liên tiếp vào các ngày 11,16,18/10/2019. Ngày 26/02/2020, Tòa án huyện Kim Bảng mở 02 phiên họp giải quyết các việc dân sự nêu trên là vi phạm thời hạn mở phiên họp quy định tại khoản 4 Điều 388 BLTTDS (chậm 6 ngày). Vì:
Theo khoản 2 Điều 388 BLTTDS 2015 quy định: “…Thời hạn thông báo tìm kiếm người bị yêu cầu tuyên bố mất tích là 04 tháng, kể từ ngày đăng, phát thông báo lần đầu tiên”. Trong hai trường hợp trên ngày đầu tiên phát thông báo của Tòa án trên Đài tiếng nói Việt Nam là ngày 09/10/2019 thì ngày kết thúc thời hạn thông báo là 09/02/2020. Theo khoản 4 Điều 388 BLTTDS quy định “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày kết thúc thời hạn thông báo quy định tại khoản 2 Điều này thì Tòa án phải mở phiên họp xét đơn yêu cầu”, như vậy Tòa án phải mở phiên họp giải quyết các việc dân sự nêu trên trước ngày 20/02/2020 mới đúng thời hạn.
1.4. Vi phạm trong việc thu tiền tạm ứng án phí:
Ngày 23/12/2019, Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên thụ lý vụ án dân sự số 15/2019/TLST-DS về “Tranh chấp hợp đồng thuê quyền sử dụng đất nông nghiệp” giữa nguyên đơn anh Đoàn Văn Soạn với bị đơn UBND xã Châu Giang (nay là phường Châu Giang), huyện Duy Tiên; người đại diện theo ủy quyền ông Nguyễn Mộng Giao – Phó chủ tịch UBND phường Châu Giang. Quá trình giải quyết vụ án, phía bị đơn UBND phường Châu Giang có đơn yêu cầu phản tố yêu cầu nguyên đơn thanh toán trả tiền thuê đất còn nợ UBND xã là 29.000.000đ, Tòa án nhân dân thị xã Duy Tiên đã thông báo cho UBND phường Châu Giang nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố là 700.000đ (bảy trăm nghìn đồng). Ngày 01/6/2020, UBND phường Châu Giang đã nộp tạm ứng án phí 700.000 đồng tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Duy Tiên (biên lai số 0003241).
Việc TAND thị xã Duy Tiên thông báo cho UBND phường Châu Giang nộp tiền tạm ứng án phí đối với yêu cầu phản tố là vi phạm quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội. Điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết 326 quy định: Không phải nộp tiền tạm ứng án phí…
b)Cơ quan, tổ chức, cá nhân khởi kiện vụ án dân sự hoặc kháng cáo bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người khác, lợi ích công cộng, lợi ích nhà nước theo quy định tại Điều 187 của Bộ luật tố tụng dân sự…
1.5. Quyết định giải quyết việc dân sự áp dụng điều luật không chính xác:
Ngày 01/6/2020, TAND huyện Duy Tiên (nay là thị xã Duy Tiên) ban hành Quyết định số 02/2020/QĐST – VDS đình chỉ việc xét đơn yêu cầu “tuyên bố một người mất tích” của người yêu cầu anh Nguyễn Đắc Tình. Phần căn cứ của quyết định đã áp dụng khoản 3 Điều 399 BLTTDS là không đúng, vì khoản 3 Điều 399 BLTTDS quy định trường hợp đình chỉ việc xét đơn yêu cầu đối với yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu. Trong trường hợp này Tòa án phải áp dụng điểm c, khoản 2, Điều 366 BLTTDS mới đúng.
1.6. Một số quyết định, bản án giải quyết ly hôn, nuôi con chung có sai sót như: Không ghi rõ mức cấp dưỡng cho mỗi người con; phần “Nơi nhận” của bản án không đề gửi cho UBND nơi đăng ký kết hôn; phần trích yếu của bản án ghi không đầy đủ nội dung quan hệ pháp luật tranh chấp; ghi ngày thụ lý vụ án trước ngày đương sự nộp tạm ứng án phí; ghi ngày ban hành Quyết định công nhận thuận tình ly hôn và sự thỏa thuận của các đương sự trước ngày tiến hành hòa giải.
2. Trong công tác thụ lý, giải quyết các vụ án kinh doanh thương mại.
2.1. Thông báo thụ lý vụ án KDTM có yếu tố nước ngoài không đúng quy định: Ngày 05/8/2020, Tòa án tỉnh ban hành Thông báo số 02/TB-TLVA về việc thụ lý vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc (địa chỉ trụ sở: 38 Eunhaeng – ro, Yeongdeugpo, Seoul, Hàn Quốc; người đại diện theo pháp luật: Ông Sim Hyoung Bo, chức vụ: Tổng giám đốc) và bị đơn Công ty TNHH Đồng kỹ thuật Korea Việt Nam (địa chỉ trụ sở: KCN Đồng Văn I, phường Đồng Văn, thị xã Duy Tiên, tỉnh Hà Nam), trong nội dung thông báo không nêu rõ thời gian, địa điểm mở phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, mở lại phiên hòa giải, mở phiên tòa và mở lại phiên tòa là không đúng quy định tại Điều 476 BLTTDS, vì đây là vụ án có nguyên đơn là tổ chức ở nước ngoài nên Tòa án phải thực hiện thông báo thụ lý vụ án theo Điều 476 BLTTDS mới đúng.
2.2. Vi phạm về thông báo nộp tiền tạm ứng án phí KDTM phúc thẩm: Vụ án “Tranh chấp hợp đồng tín dụng” giữa nguyên đơn Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc dân và bị đơn ông Lại Duy Hòa, bà Lương Thị Hoa được giải quyết tại Bản án kinh doanh thương mại sơ thẩm số 01/2020/KDTM-ST ngày 13/01/2020 của TAND thành phố Phủ Lý. Ngày 21/01/2020, ông Lại Duy Hòa nộp đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên gửi TAND thành phố Phủ Lý. TAND thành phố Phủ Lý ra thông báo cho ông Hòa nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm với số tiền 300.000đồng. Ông Hòa đã nộp số tiền tạm ứng án phí phúc thẩm theo thông báo của Tòa án.
Việc TAND thành phố Phủ Lý thông báo cho ông Hòa nộp tiền tạm ứng án phí kinh doanh thương mại phúc thẩm theo mức 300.000đồng là vi phạm quy định tại khoản 2 Điều 7, khoản 2 Điều 47 Nghị quyết 326 và điểm 2.2 phần II Mục A – Danh mục Án phí, lệ phí Tòa án ban hành kèm theo Nghị quyết số 326 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Lẽ ra, TAND thành phố Phủ Lý phải thông báo để Bị đơn nộp tiền tạm ứng án phí phúc thẩm kinh doanh thương mại theo mức 2.000.000đ mới đúng quy định của pháp luật.
3.Trong công tác thụ lý, giải quyết các vụ án hành chính.
Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án hành chính áp dụng điều luật không chính xác: Quyết định số 02/2020/QĐST-HC ngày 17/01/2020 của TAND tỉnh tạm đình chỉ giải quyết vụ án “Kiện quyết định hành chính” giữa người khởi kiện bà Vũ Thị Sự, chị Trần Thị Nga và người bị kiện Cục trưởng Cục Thuế tỉnh Hà Nam. Tại phiên tòa ngày 18/12/2019, HĐXX quyết định tạm ngừng phiên tòa với lý do cần xác minh, thu thập, bổ sung tài liệu chứng cứ mà không thực hiện thì không thể giải quyết được vụ án theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 187 Luật TTHC. Hết thời hạn tạm ngừng phiên tòa nhưng lý do tạm ngừng chưa được khắc phục, nên HĐXX ra Quyết định tạm đình chỉ giải quyết vụ án số 02/2020/QĐST-HC ngày 17/01/2020, quyết định nêu căn cứ tạm đình chỉ theo điểm đ, khoản 1 Điều 141 Luật TTHC năm 2015 là không chính xác, mà căn cứ tạm đình chỉ phải là khoản 2 Điều 187 Luật TTHC năm 2015.
Để bảo đảm cho pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân. Ngày 11/11/2020, Viện trưởng VKSND tỉnh Hà Nam đã ban hành Kiến nghị số 2303/KN-VKS-P9 yêu cầu Chánh án Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam có biện pháp chỉ đạo các đơn vị, cá nhân khắc phục, chấn chỉnh rút kinh nghiệm đối với những vi phạm, sai sót nêu trên. Ngày 25/11/2020, Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam đã có văn bản số 1027/CV-TA tiếp thu toàn bộ kiến nghị của VKS tỉnh./.